CHẾ ĐỘ ĂN CHO BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

Thứ hai - 29/08/2022 04:42 501 0
Đái tháo đường là một bệnh rối loạn chuyển hoá mạn tính, đặc trưng bởi sự tăng đường máu do thiếu hụt insulin tương đối hay tuyệt đối gây ra.
Đái tháo đường là một trong ba bệnh tăng lên song hành với tuổi già đó là: Bệnh tim mạch, ung thư và đái tháo đường. Đái tháo đường gây nên một loạt các rối loạn chuyển hoá trước hết là rối loạn chuyển hoá glucid làm glucose máu tăng cao và xuất hiện glucose trong nước tiểu. Rối loạn chuyển hoá đường kéo theo rối loạn chuyển hoá lipid, protid và các chất điện giải. Những rối loạn này gây ra nhiều  biến chứng nặng nề cho người bệnh hoặc có thể dẫn tới hôn mê và tử vong nếu không được điều trị kịp thời.
Đái tháo đường được chia làm 2 týp:
Týp 1: là Đái tháo đường phụ thuộc insulin có liên quan tới sự thiếu hụt insulin, thường là kết quả của sự phá hủy tự miễn các tế bào Beta của tụy; chiếm khoảng 10% trong tổng số bệnh nhân Đái tháo đường; thường gặp ở người trẻ và có thể trạng gầy.
Týp 2: là Đái tháo đường không phụ thuộc insulin chiếm 90% tổng số người Đái tháo đường nguyên phát, thường gặp ở người béo. Tuy nhiên, người gầy cũng gặp khoảng 15 – 20%. Giai đoạn sớm của đái tháo đường týp 2 được đặc trưng bởi sự sản xuất insulin quá mức. Khi bệnh tiến triển, mức insulin có thể giảm xuống như là kết quả của sự suy giảm một phần các tế bào Beta sản xuất ra insulin của tụy.
Theo số liệu của Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật tỉnh Hòa Bình, đến nay tỉnh Hòa Bình có tổng số 10.543 người được phát hiện đái tháo đường, trong đó số người được phát hiện trong kỳ báo cáo là 221 người; tổng số bệnh nhân được quản lý là 8.350 bệnh nhân; tổng số bệnh nhân được cấp thuốc là 4.354 bệnh nhân và tổng số bệnh nhân điều trị đạt mục tiêu là 3.828 bệnh nhân.
Chế độ ăn là vấn đề quan trọng nhất trong điều trị bệnh Đái tháo đường với mục đích nhằm đảm bảo cung cấp đủ dinh dưỡng, cân bằng đủ cả về số lượng và chất lượng để có thể điều chỉnh tốt đường huyết, duy trì cân nặng theo mong muốn, đảm bảo cho người bệnh có đủ sức khoẻ để hoạt động và công tác phù hợp với từng cá nhân.
 Đái tháo đường do tổn thương tuyến tuỵ có 2 thể (type)
Thể phụ thuộc Insulin (type I): thường gặp ở người trẻ tuổi, gày nhiều và thường có nhiều biến chứng.
Thể không phụ thuộc Insulin (type II): thường gặp ở người tuổi trên 40, người béo và ít biến chứng.
Với type I, chế độ ăn thích hợp kết hợp với dùng thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ sẽ giúp cho bệnh ổn định, hạn chế biến chứng. Với type II chỉ cần chế độ ăn thích hợp kết hợp với hoạt động thể lực điều độ thường xuyên là kiểm soát được đường huyết giai đoạn đầu của điều trị.
Nguyên tắc cơ bản về chế độ ăn của bệnh nhân Đái tháo đường là hạn chế gluxit (chất bột đường) để tránh tăng đường huyết sau khi ăn và hạn chế vừa phải chất béo nhất là các axit béo bão hoà để tránh rối loạn chuyển hoá. Chế độ ăn của người bệnh phải xây dựng sao cho cung cấp cho cơ thể người bện một lượng đường tương đối ổn định và quan trọng nhất là phải điều độ và hợp lý về giờ giấc và số lượng thức ăn trong các bữa chính và phụ.
Nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng
Nhu cầu năng lượng: bệnh nhân Đái tháo đường cũng có nhu cầu năng lượng giống như người bình thường. Nhu cầu tăng hay giảm và thay đổi khác nhau tuỳ thuộc tình trạng của mỗi người. Tuy nhiên cũng có những điểm chung như:
Tùy theo tuổi, giới
Tuỳ theo loại công việc (nặng hay nhẹ)
Tuỳ theo thể trạng (gày hay béo)
Mức nhu cầu năng lượng chung cho bệnh nhân điều trị tại bệnh viện là 25Kcal/kg/ngày.
Tỷ lệ giữa các thành phần sinh năng lượng:
Protein (chất đạm): Lượng protein nên đạt 0,8g/kg/ngày với người lớn. Nếu khẩu phần có quá nhiều đạm sẽ không tốt nhất là đối với bệnh nhân có bệnh lý thận sớm. Trong chế độ dinh dưỡng của tiểu đường tỷ lệ năng lượng do protein nên đạt 15-20% năng lượng khẩu phần.

Lipit (chất béo): Nên ăn chất béo vừa phải và giảm chất béo động vật vì có nhiều axit béo bão hoà. Các chất béo đặc biệt là các chất axit béo bão hoà dễ gây xơ vữa động mạch nhưng mặt khác chất béo lại cung cấp năng lượng (bù lại phần năng lượng do gluxit cung cấp) vì vậy nên ăn các axit béo chưa bão hoà có nhiều trong các loại dầu thực vật như dầu vừng, dầu đậu nành, dầu hướng dương... Tỷ lệ năng lượng do chất béo nên là 25% tổng số năng lượng khẩu phần và không nên vượt quá 30%. Việc kiểm soát chất béo trong khẩu phần còn giúp cho ngăn ngừa xơ vữa động mạch.
Gluxit (chất bột đường): Trong bệnh Đái tháo đường, đường huyết có chiều hướng tăng vọt sau khi ăn nhưng lại không chuyển hoá được để cung cấp năng lượng cho cơ thể vì thế chế độ ăn phải hạn chế gluxit (chất bột đường). Nên sử dụng các loại gluxit phức hợp dưới dạng các hạt và khoai củ. Hết sức hạn chế các loại đường đơn và các loại thức ăn có hàm lượng đường cao (bánh, kẹo, nước ngọt...). Tỷ lệ năng lượng do gluxit cung cấp nên đạt 50-60% tổng số năng lượng khẩu phần.
Để bệnh nhân Đái tháo đường dễ dàng trong việc lựa chọn thực phẩm, người ta chia thức ăn thành từng loại có hàm lượng gluxit khác nhau:
Loại có hàm lượng gluxit ≤ 5%: người bệnh có thể sử dụng hàng ngày, gồm các loại thịt, cá, đậu phụ (số lượng vừa phải), hầu hết các loại rau xanh còn tươi và một số trái cây ít ngọt như: dưa bở, dưa hấu, nho ta, nhót chín... (sử dụng không hạn chế).
Loại có hàm lượng gluxit từ 10-20%: nên ăn hạn chế gồm một số hoa quả tương đối ngọt như: quýt, táo, vú sữa, na, hồng xiêm, xoài chín, sữa đậu nành, các loại đậu quả (đậu vàng, đậu hà lan...)
Loại có hàm lượng gluxit từ ≥ 20%: cần kiêng hay hạn chế tối đa vì khi ăn vào làm tăng nhanh đường huyết gồm các loại bánh, mứt, kẹo, nước ngọt và các loại trái cây ngọt nhiều (mít khô, vải khô, nhãn khô...).
Với người bị Đái tháo đường nên chia làm nhiều bữa nhỏ để tránh tăng đường huyết nhiều sau khi ăn. Có thể chia làm 5-6 bữa nhỏ trong ngày. Với bệnh nhân điều trị bằng Insulin tác dụng chậm có thể bị hạ đường huyết trong đêm, do vậy nên cho ăn thêm bữa phụ trước khi đi ngủ.
Để đạt hiệu quả trong điều trị bệnh Đái tháo đường, bệnh nhân Đái tháo đường cần phải kết hợp chặt chẽ cả ba vấn đề: chế độ ăn – thuốc – hoạt động thể lực. Hoạt động thể chất giúp tăng độ nhạy cảm của cơ thể với insulin, chống lại tình trạng kháng insulin, kiểm soát bệnh tiểu đường. Vận động cũng giúp kiểm soát lượng đường trong máu, giảm nguy cơ mắc bệnh tim và tổn thương thần kinh.
Ngoài ra, bệnh nhân Đái tháo đường nên đi khám định kỳ, theo dõi đường huyết định kỳ để bác sĩ điều chỉnh thuốc uống phù hợp với tình trạng bệnh lý.
Bệnh nhân cũng cần thường xuyên kiểm tra đường huyết tại nhà. Khi người bệnh phát hiện đường huyết tăng quá mức nhưng cơ thể vẫn tỉnh táo và khỏe mạnh, bệnh nhân nên giảm ăn lại, tập thể dục, uống nhiều nước và thử đường tiếp theo trong vài ngày tới. Nếu chỉ số vẫn tiếp tục cao thì đi khám lại để bác sĩ tìm nguyên nhân, điều chỉnh liều uống. Nếu thấy đường huyết tăng đi kèm các triệu chứng như nằm li bì, bắt đầu ói mửa… bệnh nhân nên đến ngay bệnh viện, vì đây có thể là một biến chứng cấp của tiểu đường.
Minh Thủy (CDC Hòa Bình)

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây